Cư sĩ Quả Khanh là Đệ tử của Hòa Thượng Tuyên Hóa - hóa thân của Quán Thế Âm Bồ Tát. Sinh thời Hòa Thượng Tuyên Hóa từng nhận xét Cư Sĩ Quả Khanh là hóa thân bồ tát. Chúng ta hãy xem bài viết để có cảm hứng về hành trạng của vị Bồ Tát này, nguyên nhân vì sao Cư sĩ Quả Khanh tìm đến Phật Pháp.
QUẢ KHANH - VỊ BỒ TÁT THỜI MẠT PHÁP
https://g.page/PhongThuyYenMinh
Tài liệu về cố cư sĩ Quả Khanh có rất ít trên mạng, chủ yếu là tiếng Hoa. Theo một nguồn tin có thể tham khảo, thế danh và học vị của ông chính là Giáo sư Bá sĩ Dương Tác Tướng (chắc vì vậy mà Hòa Thượng Tuyên Hóa đặt cho pháp danh là Khanh) sống và làm việc ở Thiên Tân.
NGUYÊN NHÂN TÔI ĐẾN VỚI ĐẠO
Tác giả Quả Khanh
Hạnh Đoan tuyển dịch
Tôi sinh năm 1944, do từ nhỏ đã tiếp nhận nền giáo dục vô thần, nên tôi luôn cho tôn giáo là mê tín. Thế thì làm sao tôi lại bước vào con đường nghiên cứu học Phật?
Chuyện bắt nguồn từ lần du ngoạn Ngũ Đài Sơn vào mùa hạ cách đây hơn mười năm về trước.
Ngũ Đài Sơn ở tỉnh Sơn Tây, là một trong tứ đại thánh địa nổi danh của Phật giáo Trung Quốc, được xem là đạo tràng Bồ-tát Văn Thù. Trong đây có những ngôi chùa nguy nga trang nghiêm, ngàn năm cổ kính trứ danh mà tôi từng dạo qua.
Trong Đại Hùng Bảo Điện lúc nào cũng có khói hương nghi ngút, thậm chí ngay cả tiếng hồng chung ngân nga cũng khiến cho người nghe cảm thấy lâng lâng, trần lao tiêu dứt. Cảnh vật nơi đây luôn gây cho tôi cảm giác xúc động bồi hồi khó tả, như thể mình đã quen biết chốn này từ lâu lắm.
Lần thứ hai đến Ngũ Đài Sơn du ngoạn, tôi rất cao hứng và bỗng nảy ra ý muốn thám thính nơi ẩn cư thanh tu của các vị tăng khổ hạnh, vì ít ai biết đến sinh hoạt của các ngài.
Tôi nhớ mãi buổi sáng ngày hôm đó, khí trời lạnh buốt, sương giăng mịt mù. Tôi nôn nao chỉnh đốn hành trang, cẩn thận đem theo tấm bản đồ, một mình tôi bắt đầu cuộc hành trình thám thính thắng cảnh thanh u. Lòng hoàn toàn không ngờ được rằng chính lần mạo hiểm đó lại chuyển biến số mệnh của tôi lẫn bao người khác về sau này. Cho đến bây giờ, tôi luôn xem Ngũ Đài Sơn là vùng đất sinh ra tôi lần thứ hai.
Lúc bắt đầu xuất phát, tôi cố ý tránh các con đường bằng phẳng mà chuyên lựa những lối ngoằn ngoèo khúc khủy để đi.
Dọc đường, ngước nhìn lên chỉ thấy đỉnh núi cao vọi, cây cối thâm u, khói sương lượn lờ, sắc tuyết lấp lánh.
Tôi cảm thấy tinh thần sảng khoái, tâm trí rỗng rang. Đường càng lúc càng gập ghềnh. Tôi cứ đi dọc theo con suối, tiện thể thưởng bức tranh “cổ mộc hàn nham” của thiên nhiên: đá phả hơi lạnh, cổ thụ cao vút, cây cối um tùm; trời xanh mây trắng, con đường đầy dị thảo kỳ hoa. Tôi như bị ngoại cảnh lôi cuốn, say sưa đi mãi, quên hết mọi sự và đắm chìm trong cảnh nước biếc non xinh.
Mải mê trèo đèo lội suối, tôi quên là trời đã gần trưa, nhưng tới giờ tôi vẫn chưa thấy hình bóng của vị Tăng khổ hạnh nào, lòng không khỏi có chút chán nản. Trong lúc tôi đang nhìn quanh bối rối, bỗng nghe xa xa có tiếng mõ vọng đến: “Cốc! Cốc! Cốc!”… dư âm cổ sơ như lẫn khuất đâu đây, lượn lờ trong núi; âm thanh vang vang bắt nguồn từ sơn cốc, ở phía tây cánh rừng thâm u truyền tới. Tinh thần tôi phấn chấn trở lại, tôi bươn bả nhắm hướng sơn cốc tiến tới. Rẽ vào con đường hun hút sâu nhưng xinh đẹp, trên cao óng ánh sắc mây tía phủ vây, cây cối xanh tươi giống như là tiên cảnh. Lúc này tiếng mõ nghe chậm dần rồi ngừng hẳn.
Một dòng nước trong xanh uốn khúc chẳng gợn mảy trần, hiện ra trước mặt, hơi phun ra như châu ngọc. Tôi khom mình vốc nước uống, hương vị mát lạnh thanh lương đến thơm cả miệng. Uống no nê, tôi rửa mặt, còn dùng tay tát nước lên mặt. Bỗng tôi phát hiện có người đứng bên bờ suối nên ngẩng đầu lên.
Chỉ thấy lão tăng râu tóc chưa cạo, áo vá hài cỏ, khoanh tay đứng đó. Cơn gió thoảng qua, râu tóc ông lay động, tà áo phất phơ, bốn mắt chạm nhau trong khoảnh khắc nhưng tôi cảm thấy choáng váng, thần trí như mê muội. Nhãn thần của vị tăng thuần khiết và hiền lành làm sao. Tôi có cảm giác ông quá quen thuộc, cứ như là cha mẹ tiền kiếp của mình, ông tỏa sức thu hút mãnh liệt khiến thân tâm tôi vọng hướng…
- Thí chủ, xin lỗi đã làm phiền! - Vị tăng chắp tay nói.
- Dạ không! Là tôi quấy rầy bậc thanh tu như ngài - Tôi hoang mang đáp lễ.
- Thí chủ ưa vùng u tịnh này ư?
- Tôi chỉ muốn tránh cảnh ồn náo một chút nên mới đi một mình tản bộ thôi (thực ra tôi hoàn toàn không có ý giống như mình đang nói, vì tôi đang thầm ao ước có được giây phút kỳ ngộ thú vị như thế này!).
- Chà, dù sao cũng là quấy nhiễu thí chủ, thí chủ cứ dạo chơi nhé, lão tăng đi trước đây.
Tôi chưa hết bỡ ngỡ thì lão hòa thượng đã nhẹ nhàng lướt về hướng tây rồi. Tôi vội đuổi theo, bẻn lẻn thú nhận:
- Bạch hòa thượng, xin ngài dừng bước, thực ra con đang rất mong mỏi, muốn được gặp một vị cao tăng như ngài…
- Lành thay! Tôi không phải là “cao tăng”, tôi chỉ là một tu sĩ dẫn đường quê vụng thôi.
- Vừa rồi là ngài gõ mõ phải không? - Tôi hỏi.
- Tiếng mõ thức tỉnh lòng tục khách
Nước trong xanh tẩy sạch tâm trần
Tôi im lặng suy gẫm lời hòa thượng vừa nói, và trong phút chốc tôi đã đi theo ngài đến một vùng xinh tươi quang đãng, chung quanh có đầy cây lê. Gốc rất to, quả trái xum xuê. Phía bắc địa thế hơi cao, trước mặt có một thảo am nhỏ. Trong lòng tôi sung sướng nghĩ thầm: “Mình đã gặp được vị cao tăng thanh tu, siêu việt xuất thế”…
- Ta bà thế giới chẳng nên ẩn thân lâu, thời gian có hạn, chớ đợi chết đến mới lo tu. Danh vang lợi dưỡng chỉ là không, ân ái thế gian rồi cũng biệt, oan oan tương báo thì luôn tiếp nối không ngừng...
Hòa thượng làm như vô tình ngâm nga, nhưng tôi nghe, lòng âm thầm chấn động.
- Người trên đời chỉ biết tạo oan nghiệt, không biết sám hối, chỉ muốn hưởng phúc mà chẳng chịu tích phúc. Đâu hề biết, niệm Phật một tiếng, phúc tăng vô lượng, lễ Phật một lạy, tội diệt hà sa!
Tôi không còn tự chủ, tiến tới hai bước rồi quỳ xuống trước mặt lão tăng, khẩn thiết thưa:
- Sư phụ, mong ngài thu nhận con làm đệ tử, con muốn theo ngài học Phật pháp.
- Phật pháp như biển, duy có lòng tin là có thể nhập, con “tin” chăng?
Hòa thượng cố tình nhấn mạnh chữ “tin”
Câu hỏi này khiến tôi vô phương hồi đáp. Chao ôi! Tôi xưa nay luôn cho Phật giáo là mê tín, còn khinh thường, không đếm xỉa gì tới mấy cái chuyện hướng Phật, Bồ-tát lễ bái… hôm nay vì sao tôi lại chí thành quỳ dưới chân một vị Tăng chưa từng quen biết, nài xin làm đệ tử như thế này?
Trong thoáng chốc, tôi khó thể hồi đáp. Thế nhưng “không, trần lao, sám hối” v.v… những câu từ này cứ vang vang và không ngừng in sâu vào óc não làm tâm tư tôi chấn động, trong lòng tôi bỗng trổi lên một thứ tình cảm vĩ đại như đã có từ lâu lắm rồi. Trong lúc tôi bối rối, tinh thần như vô chủ, thì chợt thấy lão tăng đang nhìn tôi từ bi và chăm chú, trong khoảnh khắc tâm tôi có trăm ngàn cảm xúc đan xen, từng hạt lệ cứ thi nhau tuôn lã chã, rơi xuống làm ướt cả đôi vớ khiết bạch của lão tăng.
Cho dù tôi cảm thấy mình rất thất lễ và kỳ cục, nhưng tôi không sao ngăn được suối lệ đang tuôn trào, tôi giống hệt như đứa con phạm phải lỗi lầm, không thể nói gì mà chỉ biết khóc và khóc.
- Tín là mẹ các công đức, là nguồn gốc của đạo. Nhưng tín lại chia ra “chánh tín” và “mê tín”. Gọi chánh tín, nghĩa là chánh chứ không phải tà, giác mà không mê. Người quy y Phật giáo trước tiên cần dựng lập tri kiến chính xác. “Người lễ Phật vì kính đức cửa Phật, người niệm Phật vì cảm ân Phật, người xem kinh để rõ nghĩa lý, người tọa thiền để chứng cảnh giới Phật. Người chứng ngộ là đắc đạo của Phật…”
Tôi như kẻ đói được ăn, khát được uống, lắng nghe từng chữ, từng lời khai thị châu ngọc của ngài, cảm thấy như mỗi một cọng cỏ, mỗi một cội cây trước mắt đều tỏa ánh kim quang chói lọi, tôi cứ cung kính lắng nghe mà không hay không biết mặt trời đã ngã về tây.
Lúc tiễn tôi ra về, hòa thượng lấy một trái lê cất từ hốc đá trong lòng suối trao cho tôi. Lúc đó cơm sáng và trưa tôi chưa có gì dùng. Tôi cảm ân ngài và cầm lê đưa vào miệng cắn, nghe hương vị thơm lạnh, mát cả răng, cảm giác như được thanh phổi nhuận lòng, tôi ngạc nhiên vì thấy như mình vừa ăn được quả tiên. Hòa thượng nhìn tôi ăn say sưa ngon lành, khuôn mặt từ bi khẻ mỉm cười, nụ cười hoan hỉ thâm trầm đánh động vào nội tâm tôi, khiến tôi cảm giác giữa chúng tôi dường như đã quen biết và thân thiết rất lâu rồi vậy.
- Lê này vốn có vị đắng, khó thể nuốt trôi, nhưng nó được tẩm nước suối ngót ba tháng ròng, nên mới biến thành ngọt lịm. Suối này đông nhuận hạ mát, lê có thể tồn trữ trong dòng nước cả năm...
- Nói như thế thì ngài quanh năm đều có thể ở đây tu hành? - Tôi tò mò hỏi. Hòa thượng mỉm cười không phủ nhận.
Ánh trăng mờ ảo như sương, gió mát lạnh như nước… Con suối nhỏ chảy róc rách. Tôi cùng hòa thượng vừa đi vừa trò chuyện trên đường, tôi chưa thấy lạnh và thấm mệt thì đã ra đến con đường thô xấu ở bên ngoài.
Tôi chắp tay bái chào hòa thượng. Lòng trào dâng niềm quyến luyến không muốn rời xa ngài... nhưng tôi biết có nói nhiều cũng vô ích.
Như hiểu lòng tôi, hòa thượng khẽ nói:
- “Hữu duyên thì sẽ gặp”.
Hình dáng ngài giống như ánh trăng mờ ảo lẫn khuất vào trong rừng cây.
Điều tôi cảm thấy an ủi là ban nãy hòa thượng có nói chẳng bao lâu nữa ngài sẽ kết thúc bế quan và bắt đầu cuộc “nhập thế độ nhân, tùy duyên thuyết pháp”.
Nghĩ đến điều này lòng tôi dào dạt niềm vui. Tôi bước nhanh hơn trên đường về và có cảm giác như nếu mình tăng tốc đôi chân thì sẽ sớm được thấy ngài nhanh hơn một chút vậy.
Về đến sảnh đường, tôi ngồi im trong phòng khách, lặng lẽ hồi tưởng đến cuộc diện kiến giống như giấc mộng vừa qua, thầm cảm thấy vô cùng thú vị. Bỗng tôi sực nhớ là mình đã không hỏi tên hòa thượng, lòng buồn bã hối tiếc không nguôi.
Tôi luôn hi vọng sẽ sớm được hưởng hồng ân pháp vũ của ngài.
Không bao lâu tôi liên lạc được với Hòa thượng. Kể từ đó thầy trò chúng tôi tương quan sâu sắc, tôi được thường xuyên thân cận ngài luôn.
Quang âm thấm thoắt, mười năm trôi qua nhấp nháy.
Đến nay, tuổi tôi đã gần 60, thời kỳ này tôi thấy Hòa thượng dốc hết tâm huyết vì pháp quên mình, giáo hóa vô số chúng sinh.
Còn bản thân tôi vẫn sống luống uổng qua ngày, vì chưa buông xả hết nên khó có được thọ dụng chơn chánh, thật là xấu hổ!
Dù vậy, hiện tại tôi không muốn làm mai một những câu chuyện linh hoạt, tràn trề ý nghĩa, không muốn những bài học nhân quả có thật và cực kỳ quý giá này bị chôn sâu vào đáy huyệt, vì vậy, sau khi do dự và cân nhắc rất lâu, tôi đã cầm bút lên, ghi lại những chuyện có thực này, để chia sẻ cùng bạn đọc.
Nếu như tôi không nêu rõ danh tánh và địa điểm liên quan đến các nhân vật có thật được nêu lên trong sách, là do xét thấy không tiện. Mong chư vị thông cảm. Thêm nữa, có thể vài từ ngữ dùng trong sách không còn phù hợp với thời nay, do những địa danh, những tên quá cũ xưa còn sót lại. Chỉ mong chư vị đại đức, các pháp lữ trong đạo vui lòng chỉnh giúp cho.
Kính chúc mọi người giới định huệ tăng trưởng, phúc huệ song tu, Phật đạo sớm thành.
Đệ tử cư sĩ Quả Khanh hổ thẹn kính ghi
Lời người dịch(Ni sư Hạnh Đoan): Bây giờ tôi mới biết các địa điểm này là Quả Khanh tạm đặt để ghi lại cảm giác gặp gỡ xúc động “ Ngàn năm có một” giữa ông và sư phụ. Địa điểm không đúng tên, nhưng chuyện nhân quả hoàn toàn có thực.
Ngài Quả Khanh vừa gặp Hòa thượng Diệu Pháp thì đã “một nghe ngàn ngộ”. Từ đó nghiêm cẩn tu trì và khai mở đại trí huệ. Ông và con trai, con gái đều nhìn thấu các kiếp, các cõi. Dù thấu nhân quả quá khứ vị lai, nhưng ông chỉ gọi khả năng này là “khai phát trí huệ”. Ông dùng năng lực này để gỡ rối cứu độ rất nhiều người. Nhiều kẻ gian manh trộm cắp khi gặp ông cũng thức tỉnh tu hành. Đều trở thành hiền nhân, nối tiếp sự nghiệp độ sinh…
Nghĩa là bất kỳ ai gặp ông và nghe ông giảng pháp, đa số đều thệ nguyện dứt ác tu thiện. Kế họ bỏ mặn ăn chay, nghiêm trì giới luật, thay đổi cả cuộc đời và sống hạnh phúc. Ngay cả ngài Tuyên Hóa từ đất Mỹ xa xôi cũng xuất tiền mua vé mời ông và con gái là Quả Lâm sang Mỹ. Ngài giao pháp tòa để hai cha con thay ngài giải đáp, giảng dạy… Nội việc này thôi đủ thấy vị trí Cư sĩ Quả Khanh rất quan trọng.
P/S: Cư sĩ Quả Khanh đã qua đời vào lúc 18 giờ 43 phút ngày 21 tháng 8 năm 2018
Chu Thái Dương (朱傣杨)
Điều hành Phong Thủy Yên Minh (峰水烟茗) 096.799.3872
Chuyên gia tư vấn Phong Thủy nhà ở, xem Bát tự, gieo quẻ Kỳ Môn Độn Giáp
Achan người Việt Nam đầu tiên nhận Huyền thuật Hoàng Gia Thái Lan từ Lư Sĩ Hoàng Gia Thái Sorom